Trải qua nhiều biến động và thăng trầm của lịch sử, do ảnh hưởng của chiến tranh, của nhiều cuộc vận động di dân ở nhiều thời kỳ, nền văn hoá Quảng Bình cũng như Lệ Thủy là khu vực giao thoa giữa văn hoá bản địa và các yếu tố văn hóa hai miền Nam - Bắc (văn hoá Bàu Tró - Sa Huỳnh, Đằng Ngoài - Đàng Trong, Đại Việt - Thăng Long, Phú Xuân - Chăm pa).
Xuất phát
từ văn hoá làng, sắc thái nông nghiệp trong nền văn hoá Lệ Thủy được phản ánh
trong các điệu dân ca, thể hiện các mặt sinh hoạt, vui chơi giải trí, lao động
sản xuất khá phong phú và đa dạng. Ta có thể
thấy ở Lệ Thủy (phía nam sông Gianh) có hò khoan, hò giã gạo, vè,
lý, hò năm mái.
Ở đây
chúng tôi tập trung giới thiệu những làn điệu hò
khoan độc đáo của Lệ Thủy, nơi mà cuộc sống nông
nghiệp chiếm đại đa phần.
Hò khoan
xuất xứ từ thể thoại thơ lục bát hoặc lục bát biến thể, hoặc từ thể thơ song
thát lục bát. Hò khoan cũng kết hợp với lối kể vè, tự sự, cho nên có những câu
hò gồm ba chục đến năm chục chữ.
Kết cấu
một điệu hò khoan có hai bộ phận; Người xướng câu hò, gọi là bên
“cái”, người phụ họa gọi là bên “con”, câu phụ họa gọi là câu “xố”. Ví
dụ:
- Câu hò
lục bát:
Cái hò: Trách trời nổi trận phong ba
Con xố: Ơ... lạ hố!
Cái hò: Thiếp liệu mình thiếp
Con xố: Ơ khoan... lạ hố... là khoan
Cái hò: Quyết chèo qua rước chàng
Con xố: Ơ... lạ hố!
- Câu hò
lục bát biến thể:
Cái hò: Lạy trời cho tôi đậu thám hoa
Con xố: (..........................)
Cái hò: Trờ về đền công cho hậu
Con xố: (..........................)
Cái hò: Đã có lòng chèo qua còn sông này
Con xố: (........................)
- Câu hò
song thất lục bát :
Cái hò: Nãy hỡi em ơi! tổ quốc ta có rừng vàng biển bạc, có ruộng
lạc cấy cày, có đê dày chống lũ, có ca dao ngạn ngữ, có chuyện cũ Sơn Tinh, có
nhân tình Nguyễn Trãi, cho ta thêm thân ái, cho ta tin mãi tổ quốc vĩ đại... em
ơi!
Con xố: ( .........................)
Cái hò: Tuổi thanh xuân khi ta bước vào đời, tổ quốc dang tay
vẫy gọi...
Con xố: (........................)
Cái hò: Non nước mây trời bay cao
Con xố: (........................)
Trong tất
cả các câu hò, dù kết cấu như thế nào, cũng có ba lần xướng, giống như lối ngắt
câu trong văn viết ba lần: Lần đầu ngắt ở câu âm bằng, lần thứ hai ngắt ở câu
âm trắc giữa từ cuối, lần ba ngắt hết cũng ở âm bằng.
Hò khoan
đối đáp Lệ Thủy đạt đến trình độ điêu luyện về ngôn từ, luyến, lái, láy... đồng
thời đạt đến mức độ tinh vi cả về ngữ nghĩa, phương ngữ, Hán ngữ mà nghệ thuật
diễn xướng, nhạc điệu vẫn không hề ảnh hưởng. Những thủ pháp chơi chữ kể cả lối
chơi chữ dân gian của nhà nho đều phổ biến trong loại hò khoan Lệ Thủy.
Về luyến
lái, Ví dụ:
Con cá đối
nằm trên cối đá
Con mèo
cụt nằm ngã mút kèo
Trai nam
nhi anh mà đối được, em xin theo về cùng.
Câu hò đã
sử dụng ngôn ngữ địa phương để nói lái ngược từ, tạo nên nghĩa mới, cá đối nói
lái cà cối đá, mèo cụt nói lái là mút kèo. Như thế đã là khó giải, nhưng chưa
khó bằng toàn bộ câu hò, hai vế đối không những là đối về luyến, lái mà đối cả
ẩn nghĩa mô tả hai hoàn cảnh trái ngược, cái nguy hiểm và cái bình thản: nằm
trên cối đá và nằm ở mút kèo của mái nhà! Thực là tài tình, tưởng như khó lòng
mà đối ngay được. Ấy thế mà nghệ nhân hò khoan chỉ sau mấy giây đã hò đối lại:
Con tắn
(rắn) hổ mang nằm trong tổ hắn
Cây cau
tươi đứng trước cươi (1) tau
Trai nam
nhi đã đối đặng, theo nhau ta cùng về
(Tắn hổ mang
nói lái là tổ hắn
Cau tươi nói lái là cươi tau (sân nhà tao)
Hoặc câu
hò khác:
Nữ hò: Cá có đâu mà anh ngồi câu đó
Biết có
không mà công khó anh ơi
Anh ra đây
em chỉ cho một nơi cá nhiều
Nam đáp: Anh ngồi đây ngày đôi ba lượt
Anh biết
mất công mong cất con cá diếc lên
Để đem về
đặt một bên con cá tràu
Hai câu
trên thoạt nghe thì chưa thấy gì hay ngoài lối nói lái tài tình, nhưng câu hò
đối lại khi vừa kết thúc thì mọi người mới hò reo: nói ẩn chứa gây trêu chọc,
gây cười một cách tài hoa và hài hước trong nghệ thuật hò đối đáp vô cùng đặc
sắc.
Hay là:
Nữ hò: Nực cười ba cậu thợ may
Nhận hàng
móc đó biết mấy ngày cho xong?
Nam đáp: Lụa chưa may nên anh còn trãi đó
Chừ anh
xin nói nhỏ với cô ba
Cô ưng may
lưng hẹp hay rộng tà
Hay ướm vô
cho anh thử rồi cởi ra cho anh làm ...
Về đề tài
hài hước, chọc ghẹo giữa nam thanh nữ tú thì chẳng cần nói lái mới gây cười, mà
cách diễn đạt theo lối xách mé bình thường cũng gây vui nhộn, một sự vui nhộn
ân tình chứ không rẻ tiền, hạ cấp.
Cũng có
nhiều câu hò đột biến trong khi diễn xướng, đạt trình độ cao về nho
học, nhưng thật ra cũng rất dân dã, khi nghệ nhân hò kết hợp Hán tự với thổ ngữ
để hò đối đáp.
* Ví dụ:
Nữ hò:
Con
rắn hổ đất leo cây thục địa
Con ngựa
nhà trời ăn cỏ chỉ thiên
Trai nam
nhi anh mà đối được
Em xin kết
duyên sắt cầm
Địa là đất, thiên là trời. Chữ liền với nghĩa, vế trên đối với vế dưới nghe
qua tưởng câu đối của các cụ khoa bảng, nhưng suy cho cùng nó lại rất quen
thuộc, rất dân dã vì những loại thực vật, động vật như cây thục địa,
cỏ chỉ thiên, rắn hổ đất, con bọ ngựa là những thứ mà nhân dân ở cử ở nông thôn
hay thành thị đều nghe nói đến hàng ngày.
Người hò trước ra một câu đối như trên đã là tài, là khó, nhưng dù sao họ
cũng ở thế chủ động khi xướng lên một cách có chủ ý. Đến lượt người phải bị bắt
buộc đối đáp trực tiếp, tại chỗ chỉ sau một nhịp chày giã gạo, mới thật là tài
tình, còn tài tình hơn một bậc:
Nam hò đáp:
Con ngựa ô xuống nước hồ mã
Con gà nổ mổ cả nong kê
Trai nam nhi anh đà đối được
Bậu hãy
theo về với anh
Ngựa là
nghĩa của chữ mã, mã cũng gọi là ngựa. Gà là nghĩa của kê, kê cũng gọi là gà.
Câu ra và câu đối khá chặt chẽ về luật đối, cũng chính xác giữa chỗ lắt léo bên
chữ, bên nghĩa. Câu hò ra đã đi từ dân gian đến bác học mà câu đối lại cũng
không kém phần sắc sảo. Nhưng loại động, thực vật ở câu ra đều là những thứ
quen thuộc trong dân gian thì ngựa ô, gà nổ, nong kê, nước hồ mã cũng không có
gì là lạ với cộng đồng làng xã.
Thật là
lạ, các bậc "thầy hò" nói trên không phải là người có học cao, thậm
chí không học, nhưng mỗi khi hò với nhau, họ dường như xuất thần mà nẩy ý:
- Nữ hò
hỏi: Em nấu một nồi cơm, cơm thơm bát ngát, đơm
đầy ra bốn bát, thầy một bát, mẹ một bát, anh một bát, em một bát. Sách có câu
tứ bát tám nhì. Trai nam nhi anh mà đối được, vậy thì em thua.
- Nam hò
đáp: Cây rau ngủ, nằm trên bụi ngủ, thầy ngủ, mẹ
ngủ, anh ngủ, em ngủ, sách có câu tứ ngủ nhị nhi. Trai anh đây đà đối được, hơn
thua suy tính làm chi em nờ!
Hoặc: -
Nữ hỏi: Thúng bánh nhiều sao anh kêu là bánh ít, cá bày (dọn ra) tràn
chợ sao anh bảo cá thu? Lòng sáng sủa hay mây mù mà ngược xuôi xuôi ngược như
quả cù không chân?
- Nam đáp: Đá không chân em nói là đá nhảy. Cát không mồm mà
em bảo cát hà. Tưởng em ăn nói thật thà, củ năn Hải Hạc em gọi là
nhân sâm.
Hoặc:
- Nữ hò
hỏi: Con sông, con rùa, con cua, con rồng
Anh mà đối
đặng sẽ làm chồng của em
- Nam đáp: Con cáo, con sóc, con cóc, con sáo
Trai nam nhi
anh đà đối được, được làm chồng em chưa?
Hoặc: Nữ
hò hỏi: Con rắn không chân mà hắn đi năm rừng bảy rú. Con gà không bụ
(vú) mà nuôi đặng chín mười con. Trai nam nhi anh mà giải được, em xin làm hầu
non đến già.
Nam đáp: Con rắn không chân có cái thân dài uốn éo. Con gà không
bụ có đôi cánh khéo ấp con. Trai nam nhi anh đà đối được, hầu non xin rước về.
Tóm lại,
hò đối đáp bao gồm nhiều mặt của cuộc sống, từ chuyện tình đôi lứa đến đối chữ
đối nghĩa, từ nói lái đến sử dụng cụm từ lắt léo, từ nói lặp đến nói vần đều
được sử dụng và còn đề cập đến cả đạo lí nhân nghĩa. Có thể xem hò đối đáp là
một đặc trưng độc nhất vô nhị của hò khoan Lệ Thủy.
Rút trong
tập Địa chí Lệ Thủy