Từ bao đời nay, hình ảnh người phụ nữ tần tảo chịu thương chịu khó đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận, dạt dào chưa bao giờ vơi cạn trên đầu ngọn bút của biết bao nhà thơ nhà văn, qua nhiều thời đại khác nhau. Đất nước Việt Nam - đất nước của những câu hát ru ngọt ngào một thuở, đất nước của cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay mẹ tảo tần qua bao năm tháng... và từ trong cái nguồn mạch ấy, người phụ nữ kết tinh của non nước ngàn năm sống mãi trong thơ ca Việt Nam.
Từ bao đời nay, hình ảnh người phụ nữ tần tảo chịu thương chịu khó đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận, dạt dào chưa bao giờ vơi cạn trên đầu ngọn bút của biết bao nhà thơ nhà văn, qua nhiều thời đại khác nhau. Đất nước Việt Nam - đất nước của những câu hát ru ngọt ngào một thuở, đất nước của cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay mẹ tảo tần qua bao năm tháng... và từ trong cái nguồn mạch ấy, người phụ nữ kết tinh của non nước ngàn năm sống mãi trong thơ ca Việt Nam.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Năm
tháng dần qua đi, cùng với sự vận động của lịch sử, đất nước Việt Nam cũng đã
đổi thay khi bước vào thế kỷ mới đầy biến động - thế kỷ XX và bộ mặt xã hội đã
mất dần cái khắc nghiệt của hơn trăm năm về trước.
Vậy là
hơn một trăm năm sau, hình ảnh người phụ nữ trong văn học dưới ngòi bút của các
nhà thơ có cách nhìn nhận khác. Không còn thấy những tiếng than thân trách
phận, những lời thở than đau buồn…; người phụ nữ Việt Nam trong văn học hiện
đại Việt Nam 1930 - 1945 trở về với nét đẹp giản dị đời thường và với những
công việc hàng ngày.
Đến thời kỳ kháng chiến 1945 - 1975, trong không
khí của cuộc cách mạng sục sôi và dưới ánh sáng của lý tưởng mới, hơn bao giờ
hết hình ảnh người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp tuyệt vời, vẻ đẹp của những con
người đã được giải phóng, được tháo ra khỏi vòng cương tỏa của lễ giáo phong kiến,
để hòa mình vào công cuộc chung của đất nước. Đó là những cô thanh niên xung
phong trên tuyến lửa Trường Sơn nhỏ bé mà hiên ngang trong thơ Nguyễn Đình
Thi hay là những cô gái Nam Bộ “dịu dàng như những nàng tiên”, là những
“cô du kích, giao liên” của chốn quê hương gian khổ mà anh dũng trong “Trở về
quê nội” - Lê AnhXuân... Tất cả đều hiện lên đẹp đẽ bởi mang trong mình hồn
thiêng của sông nước. Người phụ nữ là người đại diện cho dân tộc, Huy Cận trong
bài thơ “Ca ngợi người phụ nữ Việt Nam”(1966) viết:
“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”.
Nhà thơ như hóa thân vào người phụ nữ để tự hào
mà nhủ thầm rằng: trongcuộc sống hôm nay, người phụ nữ là một phần của lịch sử,
họ tạo nắng cho nhân gian và tạo nắng cho thơ - nghĩa là họ làm đẹp cho cuộc
đời, họ cũng là cảm hứng của thi sĩ... nhưng họ đã được thổi vào một sức sống
mãnh liệt lớn để làm đẹp “cho đời” và “cho thơ” như thế đó.
Nằm
trong dòng chảy bất tận ấy, văn học trong giai đoạn đất nước đổi mới (từ 1986
trở đi) vẫn không ngừng khám phá, thể hiện hình tượng người phụ nữ. Nhưng sau
cuộc chiến tranh, đất nước hòa bình trở lại, họ đã khác nhiều về tâm tư, tình
cảm và cả những khát vọng yêu thương. Nếu coi“thơ ca là tiếng nói của tâm hồn”
thì hơn bao giờ hết thời đại tự do đã cho phép người phụ nữ nói rõ những cung
bậc của lòng mình. Họ hiện lên trong thơ như con người giữa đời thường tâm sự
với ta về cuộc đời, tình yêu về sự sống điển hình là thơ Xuân Quỳnh trong bài
tự hát có câu :
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai cũng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi
Và đặc
biệt, chưa bao giờ ta thấy nhu cầu hạnh phúc, nhu cầu tự do đến tột độ như tình
yêu lại hiện lên rõ nét như trong thời kỳ này khi đến với thơ của Phan Huyền
Thư hay Vi Thùy Linh... Ngày hôm nay, người phụ nữ có quyền được sống
đúng với xúc cảm và bản năng yêu đương của mình.
Có ai
đó nói rằng: “Người phụ nữ là một nửa thế giới”, họ là những bông hoa tỏa hương
cho muôn đời. Và quả thật, họ đã đi vào những trang viết chảy suốt trong văn
học từ trước đến nay, để rồi không chỉ làm nên một nửa, mà là trọn vẹn tấm hình
trong sâu thẳm tâm hồn thế hệ người đọc hôm nay và cả mai sau.