I.
Lý do chọn chuyên đề
Trong
bối cảnh hiện nay, ngành giáo dục và đào tạo đang nổ lực đổi mới phương pháp
dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những
khâu cơ bản nhằm góp phần thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào
tạo. Nghị quyết 29 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI đặt ra yêu cầu đối
với tất cả các cấp học, trong đó có cấp THCS: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại;
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
Hiện
nay Phòng GD- ĐT Lệ Thủy đang tích cực chỉ đạo việc đổi mới phương pháp dạy
học, theo tinh thần các công văn
sau:
- Công
văn số 3535/BGDĐT-GDTrH ngày 27/5/2013 về áp dụng phương pháp "Bàn tay nặn
bột" và các phương pháp dạy học tích cực khác.
- Công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH ngày 08/10/2014 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới PPDH và
kiểm tra, đánh giá.
- Công văn 692/GD&ĐT-THCS ngày 14/9/2016 của Phòng
GD&ĐT về thực hiện đổi mới PPDH từ năm học 2017-2018.
- Thực hiện đánh giá giờ dạy theo 10 tiêu chí đã cụ thể
hóa tại Công văn số 2175/SGDĐT-GDTrH ngày 03/10/2016 của Sở Giáo dục và Đào
tạo.
Với mong muốn góp phần đổi mới dạy học, nhóm
chuyên môn lựa chọn 1 trong những tiêu chí đánh giá giờ dạy để nghiên cứu, tìm
hiểu đó là tiêu chí thứ 7 Mức độ phù hợp, hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ và khuyến khích học sinh hợp tác, giúp đỡ nhau khi
thực hiện nhiệm vụ học tập nhằm giúp học sinh tích cực và chủ động trong việc
tiếp thu kiến thức.
1.
Sự cần thiết của chuyên đề
Với
xu thế phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, đặc biệt phát huy khả năng
tự học, tự tìm tòi, trao đổi nhóm để tìm ra chân lý với sự hỗ trợ của người
thầy, việc bồi dưỡng cho học sinh hỗ trợ nhau, hợp tác giúp đỡ nhau là điều hết
sức cần thiết. Các hoạt động học tập có sự phân chia học sinh theo từng nhóm
nhỏ: cặp đôi,cặp ba ... với đủ thành phần khác nhau về trình độ, cùng trao đổi
ý tưởng, nguồn gốc kiến thức dựa trên cơ sở là hoạt động tích cực của từng cá
nhân. Từng thành viên trong nhóm không chỉ có trách nhiệm với việc học tập của
mình mà còn có trách nhiệm quan tâm đến việc học tập của bạn bè trong nhóm,
phát huy năng lực của học sinh,rèn luyện kỹ năng sống, thực hiện câu tục ngữ mà
người xưa đã để lại đó là “ Học thầy không tày học bạn”.
2.
Mục đích, yêu cầu của chuyên đề:
a. Mục đích:
-
Nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn, tập trung vào thực hiện đổi mới PPDH
và KTĐG theo định hướng phát triển năng lực học sinh;
-
Cũng cố kỷ năng, năng lực giáo viên trong việc chủ động lựa chọn nội dung để
xây dựng các chuyên đề dạy học trong mỗi môn học và các chuyên đề tích hợp,
liên môn phù hợp với việc tổ chức hoạt động học tích cực, tự lực, sáng tạo của
học sinh; sử dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực để xây dựng tiến
trình dạy học theo chuyên đề nhằm phát triển năng lực và phẩm chất của học
sinh.
b.
Yêu cầu:
-
Việc thực hiện chuyên đề góp phần thực hiện mục tiêu của chương trình giáo dục
phổ thông, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, địa phương và khả năng
học tập của học sinh trong trường.
-
Giáo viên được phân công rà soát chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ theo chương
trình hiện hành và các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo
phương pháp dạy học tích cực, xác định các năng lực và phẩm chất có thể hình
thành cho học sinh trong mỗi chuyên đề đã xây dựng.
-
Tổ chức thao giảng 3 tiết, thảo luận rút kinh nghiệm bài dạy chuyên đề phải tập trung vào 10 tiêu chí theo hướng dẫn
trong công văn số 2175/SGDĐT-GDTrH ngày 03/10/2016 của Sở GD-ĐT và Công văn
số 692/GD&ĐT-THCS ngày 14/9/2016 của Phòng GD-ĐT.
II.
Trực trạng dạy học môn hiện nay
1. Ưu điểm
-
Đối với việc giảng dạy bộ môn Sinh học, hiện nay giáo viên đã được tập huấn về
đổi mới phương pháp dạy học. Đặc biệt là đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
phát huy năng lực người học. Đó là phương pháp ngoài cách dạy học thuyết trình
cung cấp kiến thức thì tổ chức hoạt động dạy học thông qua trải nghiệm, giải
quyết những nhiệm vụ thực tiễn. Qua các
hoạt động học tập, học sinh sẽ được hình thành và phát triển không phải một
loại năng lực mà là được hình thành đồng thời nhiều năng lực.
-
Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện bồi dưỡng cho giáo viên. Đội ngũ giáo
viên bộ môn Sinh – Công nghệ còn trẻ, năng động trong tiếp cận các phương pháp
dạy học mới.
2. Tồn tại
Việc
dạy học bộ môn Sinh – Công nghệ ở nhà trường
gặp nhiều khó khăn như:
Cơ
sở vật chất, thiết bị dạy học của nhà trường còn thiếu không đáp ứng được yêu
cầu thực tế của bộ môn.
Phòng
học bố trí theo phương pháp dạy học cũ, nên việc tổ chức các hoạt động trong
một tiết học gặp nhiều khó khăn.
Nhiều
giáo viên ngại khó, không mạnh dạn đổi mới phương pháp, không chú trọng tổ chức
các hoạt động học tập tích cực cho học sinh. Trong dạy học vẫn còn nặng về truyền
thụ kiến thức một chiều. Do đó việc hình
thành các năng lực cho học sinh đã yếu lại càng yếu hơn.
Trường
thuộc địa bàn khó khăn, trình độ dân trí thấp, nên ảnh hưởng đến việc quan tâm
giúp đỡ học sinh.
Về
phía học sinh:
+
Nhiều học sinh vẫn quen với phương pháp học cũ, thầy giảng trò chép, học vẹt
máy móc. Tư tưởng học tập của học sinh vẫn còn chưa tiến bộ, chưa có ý thức tự
giác, tích cực trong các hoạt động học tập, thảo luận nhóm.
+
Nhiều học sinh học kém, không nắm vững kiến thức nhiều môn nên việc vận dụng để
suy luận, liên hệ hay vận dụng kiến thức liên môn hay vận dụng liên hệ thực tế
gặp nhiều khó khăn.
+
Nhiều học sinh chưa năng động, tích cực trong các hoạt động giáo viên tổ chức.
Việc nắm bắt kiến thức, hoạt động học tập của các em còn phụ thuộc nhiều vào
sách giáo khoa, chưa khai thác hiệu quả các nguồn tài liệu khác. Chính vì vậy
các năng lực phát triển cho học sinh chưa nhiều, chưa đạt được hiệu quả mong
muốn.
III.
Nội dung và các giải pháp
1.
Nâng cao hơn
nữa lòng thích bộ môn cho học trò
Trong
hoạt động dạy - học, hai nhân tố không thể thiếu đó là giáo viên và học sinh.
Với dạy học tích cực, người giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn để học
sinh thực hiện các hoạt động học tập khám phá kiến thức. Không phải là người
trực tiếp chỉ ra kiến thức, giáo viên chỉ ra con đường để học sinh khám phá
kiến thức mới.
Có
nhiều cách
để học
sinh tiếp cận
với kiến
thức mới, nhưng để kiến thức đến một cách
tự nhiên, dễ hiểu và lưu lại trong bộ nhớ lâu nhất đòi hỏi người học phải có sự
nghiên cứu, suy nghĩ và lựa chọn ra cách thức phù hợp với đối tượng học sinh
của mình. Điều đó chỉ thực hiện được khi giáo viên phải say sưa với nghề
nghiệp, dành tình yêu cho công việc cũng như cho các em học sinh. Rõ ràng khi
có tình yêu với công việc đang làm thì chúng ta sẽ tận tụy hơn và cống hiến hết
mình hơn trong các hoạt động học tập, say mê, miệt mài trong việc tìm kiếm các
kiến thức. Từ đó có thêm động lực và học tập được nhiều điều từ niềm say mê đó.
2.
Tạo không
khí học tập
thoải
mái
Bất kì một công
việc nào
muốn có kết quả
cao đều cần
có một môi
trường làm
việc thuận
lợi. Môi trường
đó
không đơn thuần
là không
khí trong sạch để
hít thở, là nguồn ánh sáng phù hợp để nhìn rõ mà còn là sự thân thiện, hòa đồng
trong mối quan hệ với những người xung quanh. Một giờ học quá gò bó, căng thẳng
sẽ khó kích thích được tư duy sáng tạo của học sinh, khiến học sinh nhanh chóng
cảm thấy nhàm chán. Vì vậy, người giáo viên cần tạo ra cho học sinh một không
khí học tập thoải mái nhất trong mỗi giờ lên lớp.
Để
tạo không khí học tập tích cực, giáo viên phải tạo hứng thú học tập mà ở đó mọi
học sinh đều có thể tích cực tham gia trong quá trình học tập, luôn hào hứng và
muốn biết được sự tiến bộ của mình, liên tục tạo ra những thử thách vừa sức,
giáo viên phải biết tổ chức các hoạt động tự lực của học sinh.
3.
Đa dạng
hóa các
hoạt động học
tập của
học sinh
Quá
trình dạy học
gồm một chuỗi dài những hoạt động nối tiếp nhau, trong mỗi hoạt động học sinh
phải thực hiện những nhiệm vụ riêng biệt để đạt được mục tiêu nhất định nào đó.
Thử hình dung nếu tất cả các hoạt động đều được diễn ra theo cùng một cách, tại
cùng một địa điểm với những phương tiện giống nhau thì liệu có mang lại sự
thích thú cho học sinh, có khơi dậy được tư duy sáng tạo và tính tích cực của
học sinh không?
Một trong năm yếu
tố thúc đẩy dạy
và học
tích cực là mức độ và sự đa dạng
các hoạt động
học tập
của học
sinh. Như vậy, sự đa dạng các hoạt động học tập là một động lực thúc đẩy hứng
thú, lòng nhiệt tình từ phía người học.
Tiếp theo, giáo viên xác định số
lượng hoạt
động, hình thức
tổ chức và nội dung các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu ở trên. Việc thay
đổi đa dạng các hoạt động học tập của học sinh là cần thiết để góp phần tạo ra
sự hứng thú, tránh nhàm chán đơn điệu. Tuy nhiên, đa dạng hóa không có nghĩa là
trong bài soạn nào cũng tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh hoặc nội dung nào
cũng đem ra thảo luận. Với mỗi yêu cầu cần đạt được trong mỗi mục, giáo viên có
thể đưa ra những hướng thiết kế hoạt động khác nhau. Tuy nhiên, để hướng đến sự
thích thú, say mê của học sinh với mỗi hoạt động đó thì giáo viên cần lựa chọn
cách tổ chức phù hợp nhất, làm sao để học sinh phát huy tối đa khả năng và hiểu
biết của bản thân, đồng thời có sự liên kết chặt chẽ với tập thể.
Liên
tục thay đổi hình thức động viên học tập, phát huy tối đa tính tư duy tích cực
của học sinh, tổ chức tình huống có vấn đề đòi hỏi dự đoán, nêu giả thiết,
tranh luận trái ngược.
4.
Tổ chức
các hoạt động dạy
học
Từ thiết
kế trên
giáo án, giáo viên tiến hành tổ chức các hoạt động dạy học
thực tế. Đây là công việc khó, đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt, có kinh nghiệm
để xử lí tốt các tình huống mới phát sinh trong quá trình hoạt động của học
sinh. Nếu tổ chức tốt, học sinh làm việc thuận lợi và có hiệu quả sẽ khiến các
em phấn chấn, thích thú, để có thể hỗ trợ nhau trong học tập.Ngược lại, nếu tổ
chức không tốt, không những mục tiêu đề ra về kiến thức, kĩ năng không đạt được
mà còn làm cho học sinh có cảm giác chán nản, mệt mỏi.
5. Gắn kiến thức với thực
tiễn
Sinh
học là một bộ
môn rất gần gũi với thực tiễn cuộc sống, vì vậy sẽ là thiếu sót nếu giáo viên
không biết khai thác lợi thế này vào trong hoạt động dạy học nhằm tăng sức hấp
dẫn đối với học sinh. Sự gần gũi của kiến thức lí thuyết với thực tế giúp học
sinh dễ dàng kiểm chứng, liên hệ đã trở thành một trong những yếu tố thúc đẩy
tính tích cực của học sinh. Một khi kiến thức được kiểm chứng sẽ bồi đắp thêm
lòng tin của học sinh đối với bộ môn, đối với khoa học.
Dạy học
Sinh học không chỉ hướng học
sinh đến việc
khám phá, phát hiện kiến thức về thế
giới quanh ta mà còn hướng đến giáo dục con người biết trân trọng, bảo vệ thiên
nhiên, môi trường xung quanh mình. Gắn
kiến thức với chính những gì có thực trong cuộc sống là một công việc quan
trọng để mỗi cá nhân nhận thức được vai trò của bản thân với cộng đồng, với thế
giới tự nhiên cũng như những tác động ngược lại của các yếu tố đó đến bản thân
mỗi người.
Vì
vậy việc đưa ra các tình huống thực tiễn sẽ gần gũi với học sinh, học sinh nào
cũng có thể đưa ra chính kiến của mình, để trao đổi thảo luận trong quá trình
học tập.
7. Dạy
học vừa
sức, chú ý tới đặc điểm cá biệt và tính
tập thể trong quá trình dạy học
Dạy học
vừa sức
có nghĩa là
trong dạy học
phải tạo
nên khó khăn vừa
sức, những
yêu cầu và
nhiệm vụ học tập
đề ra phải tương ứng với giới hạn cao nhất của vùng phát triển trí tuệ gần
nhất. Dạy học vừa sức không có nghĩa là học sinh học đến đâu thì dạy đến đó, mà
bao giờ cũng đề ra những khó khăn và dưới sự chỉ đạo của người giáo viên, người
học bằng sự nỗ lực của mình cũng đều khắc phục được. Dạy học như vậy mới đảm bảo
đi trước sự phát triển, thúc đẩy sự phát triển của học sinh.
Sự khó
khăn vừa
sức với
người học
khác với sự
quá tải về
trí lực và
thể lực.
Sự quá tải đó sẽ làm
yếu đi
sự nỗ lực ý
chí, khả năng
làm việc sẽ bị hạ thấp rõ rệt và làm cho
học sinh sớm mệt mỏi.
Tính
vừa sức đòi
hỏi phải
phù hợp với đặc điểm lứa
tuổi. Mỗi
độ tuổi
gắn với
sự trưởng
thành của
những cơ
quan trong cơ
thể và
những chức
năng của
các cơ quan đó, cũng như
sự tích
lũy những
kinh nghiệm về mặt nhận thức và mặt xã hội, với loại hoạt động chủ đạo của lứa
tuổi đó. Lứa tuổi thay đổi thì nhu cầu trí tuệ và hứng thú nhận thức của trẻ
cũng thay đổi.
Trong
cùng một lứa
tuổi, học
sinh cũng có sự
khác nhau về hoạt động hệ
thần kinh cấp
cao, sự phát triển về thể chất và tinh thần, về năng lực, hứng thú,… Vì vậy, sự
vừa sức phải chú ý đến những đặc điểm cá biệt.
Mặt khác, điều kiện
dạy học ở nước
ta là dạy
từng lớp,
mỗi lớp
khoảng 30 - 50 học sinh, điều đó đòi hỏi giáo viên phải tiến hành dạy học và
giáo dục cả lớp như một tập thể học tập, tạo điều kiện và tổ chức các công tác
học tập của tất cả học sinh, đồng thời phải tính đến những đặc điểm cá biệt của
từng học sinh nhằm đạt được hiệu quả dạy học và góp phần phát triển những tư
chất tốt đẹp của các em.
IV.
Kế hoạch thực hiện chuyên đề (nêu rõ thời gian hoàn
thành và phần hành, trách nhiệm của từng cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của
những người được phân công thực hiện phần Thể
nghiệm chuyên đề);
Tên
chuyên đề: các biện pháp hỗ trợ và khuyến
khích học sinh hợp tác, giúp đỡ nhau khi thực hiện nhiệm vụ học tập.
- Môn học: Sinh
học và Công nghệ
- Thời gian tiến hành thực hiện chuyên đề: tháng 10,11/2017
- Người thực hiện chuyên đề
+ Người viết chuyên đề: Đ/c Đinh Quang Luân
+ Giáo viên dạy chuyên đề: Đ/c Đinh Quang Luân, Đ/c Phan
Thị Thu Hà và Đ/c Nguyễn Vĩnh Hà
- Địa điểm báo cáo và dạy chuyên đề: Trường THCS Hưng
Thủy
-
Kế hoạch tổ chức thực hiện
TT
|
Nội dung công việc
|
Người thực hiện (nhóm thực hiện)
|
Thời gian thực hiện
|
Ghi chú
|
1
|
- Viết báo cáo lí thuyết
chuyên đề.
- Dạy minh họa, thể hiện
chuyên đề
|
Đ/c Luân
Đ/c V Hà
Đ/c P Hà
Đ/c V Hà
|
Tuần 1,2 – Tháng 10
Tuần 4/Tháng10
Tuần1 /tháng 11
Tuần 2 tháng 11
|
|
2
|
Thảo luận, rút kinh
nghiệm chuyên đề
|
Cán bộ, giáo viên trong
tổ
|
Tuần 3 tháng 11
|
|
V.
Sức lan tỏa của chuyên đề
- Với bộ môn : Việc áp dụng các biện pháp
hỗ trợ và khuyến khích học sinh hợp tác, giúp đỡ nhau khi thực hiện nhiệm vụ
học tập không còn mới mẻ trong bộ môn sinh học. Song thực hiện như thế nào
để học sinh phát huy tốt các năng lực của mình là vấn đề không dễ dàng. Chuyên
đề đã cụ thể hóa những giải pháp giúp giáo viên bộ môn dễ hình dung các bước,
thứ tự tiến trình dạy học theo hướng đổi mới.
Việc thực hiện thành công phương pháp này góp phần giúp học sinh thực
hiện tốt các nhiệm vụ học tập, chiếm lĩnh được tri thức, bồi dưỡng và hình
thành các năng lực cần thiết cho bản thân.
- Với trường THCS Hưng Thủy: Tạo ra sự đổi mới phương pháp dạy học mãnh mẽ
trong đội ngũ, thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục của nhà trường theo định
hướng mà Đảng, Nhà nước và ngành giáo dục đã đề ra.
- Với huyện Lệ Thủy: Góp phần thực hiện đổi mới phương pháp, thực hiện tốt các
nhiệm vụ mà ngành giáo dục đề ra.
VI.
Kết luận
Với việc đổi mới các
biện pháp hỗ trợ và khuyến khích học sinh hợp tác, giúp đỡ nhau khi thực hiện
nhiệm vụ học tập sẽ góp phần đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy học bộ môn Sinh học, công nghệ nói riêng và các bộ
môn nói chung. Góp phần thực hiện tốt định hướng đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục theo hướng huy năng lực người học. Qua đó học sinh không chỉ được rèn luyện
các năng lực chung như năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực tự học,
năng lực giải quyết vấn đề…. Và còn rèn luyện tốt các năng lực của bộ môn như
năng lực quan sát, năng lực dự đoán, năng lực phân loại … Bồi dưỡng được lòng
yêu thích bộ môn, ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường.